Skkn trẻ 5- 6 tuổi, skkn mầm non 5-6 tuổi, skkn 5-6 tuổi mới nhất, skkn 5-6 tuổi hay nhất,...
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Cha mẹ nào sinh con ra cũng mong con mình được khỏe mạnh, thông minh và cố gắng tạo điều kiện tốt nhất để con phát triển. Song do sự phát triển của xã hội nên trẻ đã được gửi tới trường Mầm non để học tập nhằm giúp cha mẹ, các bậc phụ huynh làm việc, tham gia vào lao động xã hội. Điều này cho thấy thời gian trẻ hoạt động cùng cô và các bạn ở trường rất lâu, bằng 2/3 số thời gian trẻ thức trong ngày. Vậy làm thế nào để giúp trẻ sống ở trường cùng các bạn bè mà trẻ có nề nếp, ngoan ngoãn, hiểu biết mà vẫn hồn nhiên, mạnh dạn, linh hoạt như ở gia đình, đó là nhiệm vụ rất khó khăn của một giáo viên phụ trách nhóm lớp.
Thông thường giáo viên tuy đã biết về sự cần thiết phải xây dựng, phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ phù hợp với việc phát triển tâm sinh lý lứa tuổi nhưng trong thực tế hầu hết giáo viên hay chú trọng tới việc rèn nề nếp lớp, nề nếp trẻ để luôn trật tự, yên tĩnh, ngoan ngoãn. Song mặt trái của việc đó là trẻ mất đi sự tự tin, mạnh dạn, sáng tạo của bản thân và chính điều này đã ảnh hưởng rất lớn ở trường phổ thông sau này.
Năm học 2020-2021 được sự phân công của ban giám hiệu nhà trường tôi được chủ nhiệm lớp 5-6 tuổi với tổng số học sinh là 22 cháu trong số đó tất cả số học sinh đều là học sinh mới mà năm nay tôi đón nhận. Khi bắt đầu đón trẻ tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn như phụ huynh chưa hiểu cô giáo nên còn lo lắng e ngại khi gửi con cho cô, một số trẻ những buổi đầu tới lớp còn khóc và không muốn đi học, các bạn ấy cứ đòi về và đòi học cô giáo cũ… Khi tham gia các hoạt động trên lớp các con rất nhút nhát và thậm chí còn không chú ý khi tham gia vào các hoạt động. Để khắc phục vấn đề này tôi đã đưa ra một số biện pháp cụ thể để thực hiện để giúp trẻ phát triển được tính hồn nhiên, chủ động, mạnh dạn, tự tin đúng như lứa tuổi của trẻ.
Làm thế nào để giúp trẻ sống trong một tập thể đông đúc có nề nếp, ngoan ngoãn, hiểu biết mà vẫn hồn nhiên, mạnh dạn, linh hoạt đó là nhiệm vụ rất khó khăn của một số giáo viên phụ trách nhóm lớp. Bản thân tôi là một giáo viên vào trường cũng đã lâu nên có nhiều băn khoăn suy nghĩ. Để khắc phục vấn đề này tôi đề ra một số biện pháp cụ thể, yêu cầu giáo viên thực hiện để giúp các cháu phát triển được tính hồn nhiên, chủ động, mạnh dạn, tự tin đúng theo lứa tuổi của mình. Vì thế tôi đã quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi tự tin hơn khi ở trên lớp”
2. Tên sáng kiến
Xuất phát từ thực tiễn dạy trẻ tôi nhận thấy việc giúp trẻ tự tin là rất cần thiết. Tự tin là một đức tính tốt đẹp của con người, là sự tin tưởng vào chính bản thân mình, tin vào khả năng và những hành động của chính mình. Tin tưởng sẽ giúp cho bạn có thể giành được kết quả một cách nhanh và chắc chắn nhất. Cũng như sự kiên nhẫn, lòng bao dung thì tự tin cũng cần phải có một quá trình rèn luyện. Sự tự tin nói thì dễ nhưng không phải ai cũng có thể có được, đó sẽ là sự khác biệt giữa mọi người. Giống như là một đứa trẻ lúc nhỏ thì được cha mẹ yêu thương và bảo bọc, khi lớn hơn một chút thì thường khích lệ chúng phải tự tin, để làm gì đây, đương nhiên là muốn cho chúng có được sự thành công trong tương lai.Vậy chúng ta mới thấy được rằng đức tính tự tin hoàn toàn cần thiết đối với mỗi con người và cần thiết phải rèn luyện hằng ngày.
Đưa ra một số biện pháp giúp trẻ tự tin hơn cũng là một phần quan trọng trong nội dung giáo dục trẻ, đó là khâu đầu tiên hình thành kĩ năng giao tiếp, ứng xử hòa nhập trong cuộc sống của lứa tuổi mầm non. Từ những thực tế trên lên tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài" Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi tự tin hơn khi ở trên lớp”
3. Tên tác giả sáng kiến
4. Chủ đầu tư sáng kiến:
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Vào tất cả các lĩnh vực phát triển toàn diện cho trẻ 5-6 tuổi.
6. Ngày sáng kiến áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Tháng 9/ 2021
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1 Về nội dung của sáng kiến
Muốn trẻ giao tiếp mạnh dạn, tự tin cho trẻ mẫu giáo thì trước hết bản thân cô cần phải có kỹ năng giao tiếp tốt như: Kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong giao tiếp, kỹ năng cân bằng nhu cầu của bản thân và đối tượng giao tiếp, kỹ năng nghe, kỹ năng làm chủ cảm xúc và hành vi, kỹ năng tự kiềm chế bản thân và kiểm tra đối tượng giao tiếp, kỹ năng diễn đạt ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu, xử lý linh hoạt, mềm dẻo, kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp. Đặc biệt cô giáo phải hiểu rõ kiểu giao tiếp của người lớn với trẻ: Vì giao tiếp là hai chiều, vì trẻ đáp ứng khác nhau với cách mà người lớn giao tiếp với trẻ, vì người lớn nên làm gương cho trẻ, vì thay đổi hành vi, cách giao tiếp của người lớn dễ hơn là thay đổi trẻ.
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng và đưa ra một số biện pháp để giúp trẻ mẫu giáo giao tiếp tự tin, mạnh dạn hơn. Từ đó, giúp trẻ tham gia tích cực các hoạt động, chủ động giao tiếp với cô giáo, với bạn, trẻ biết làm chủ cảm xúc và hành vi và kiềm chế bản thân... Đặc biệt hình thành kỹ năng giáo dục văn hoá trong giao tiếp cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non. Sau đây tôi xin đưa ra một số biện pháp giúp trẻ tự tin hơn khi ở trên lớp đó là:
7.2.1. Biện pháp 1: Tạo môi trường học tập giao tiếp gần gũi, thân thiện.
Trong khi tổ chức các hoạt động trên lớp như học tập, vui chơi, giao tiếp với trẻ, giáo viên phải tin trẻ, yêu cầu trẻ tự nói, tự làm, phải biết ưu điểm, nhược điểm của trẻ để từ đó tìm ra biện pháp giáo dục thích hợp. Trong hoạt động hằng ngày, trẻ gặp khó khăn giáo viên không được giúp đỡ trẻ ngay mà nên trò chuyện cùng với các trẻ khác giúp trẻ tìm con đường giải quyết.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Cô giáo luôn chủ động tạo mối quan hệ thân thiện và gần gũi để nói chuyện với trẻ chắc chắn sẽ giúp cho trẻ có cảm giác thoải mái, có nhu cầu giao tiếp bằng lời. Có nghĩa là trong tất cả mọi hoạt động của trẻ, giáo viên mầm non nên chú ý quan sát và tạo tình huống kích thích trẻ trả lời cũng như nói lên nhu cầu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân mình với cô. Giáo viên phải biết lắng nghe và chờ đợi trẻ: đây là việc làm cần thiết và có hiệu quả khi giáo viên tiếp xúc, giao tiếp với trẻ trong quá trình tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ. Bất kỳ người nào khi nói cũng mong muốn người khác lắng nghe mình. Hơn nữa, giáo viên kết hợp vừa chờ đợi vừa lắng nghe giúp trẻ giao tiếp được nhiều hơn. Khi lắng nghe giáo viên nên thể hiện nét mặt vui, thân thiện và có cử chỉ khuyến khích trẻ nói.
Thay vì tâm thế nhõng nhẽo, mếu máo khi rời bố mẹ, những đứa trẻ sẽ nhanh chóng và đầy hứng khởi đập tay lên cửa lớp chào cô theo nhiều cách khác biệt, rồi vui vẻ chạy vào lớp. Nhìn con thơ chủ động vươn người lên đập tay, nhí nhoáy lắc mông hoặc sà vào lòng cô giáo khi vừa đến cửa, các phụ huynh cũng vui vẻ yên tâm để đi làm. Đây là 1 mô hình hướng tới “lớp học hạnh phúc” giúp cho trẻ luôn cảm thấy yên tâm vui vẻ mỗi khi tới lớp.
Ví dụ: Trước khi vào lớp, các bé sẽ tự mình lựa chọn một cách chào với giáo viên trong “menu lựa chọn” hành động cảm xúc dán ngay trên cửa lớp. Tùy từng lựa chọn của trẻ, cô giáo sẽ đập tay, bắt tay hoặc nhún nhảy hay ôm đón chào các bé. Hoạt động này không quá khó khăn để thực hiện và cũng không tốn kém nhiều chi phí, mà cốt quan trọng là cái tâm và sự nhiệt huyết của người giáo viên. Với mỗi hình ảnh cô giáo sẽ giải thích cho các bé về ý nghĩa và hướng dẫn thực hiện việc chào cô ra sao, vì thế các con rất hứng thú”.
Tạo cho trẻ cảm nhận được “Đi học là hạnh phúc và mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, làm cho trẻ thêm yêu trường,yêu lớp, gắn bó với ngôi nhà chung, đó chính là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo và giáo viên mầm non nói riêng.
Khuân viên ngoài trời của trường mầm non Hội Hợp
Việc trang trí lớp học sao cho tự nhiên, biến không gian lớp học trở nên gần gũi, thân thiện có ý nghĩa giáo dục cho trẻ là việc làm không phải dễ. Bởi vậy tôi đã “Trang trí kết hợp giữa làm đẹp cảnh quan lớp học với yêu cầu phục vụ học tập của trẻ lớp mình”.
Như vậy việc tạo cảnh quan thân thiện đối với trẻ giúp trẻ học tập một cách gần gũi thân thiện có tác dụng giúp trẻ đạt được các mục tiêu giáo dục.
Lứa tuổi mầm non “trẻ học mà chơi, chơi mà học” thông qua chơi để trẻ lĩnh hội kiến thức. Vì vậy, việc tạo cơ hội cho trẻ được học tập, vui chơi trong môi trường thân thiện, trẻ sẽ phát triển toàn diện về các mặt thể chất, nhận thức thẩm mỹ, lao động …
Hình ảnh trang trí ngoài cửa lớp
Trang trí xây dựng cảnh quan, môi trường hoạt động trong và ngoài lớp rất quan trọng bởi qua các môi trường giáo dục này sẽ có sự hấp dẫn, kích thích trẻ tham gia tìm tòi khám phá, bộc lộ khả năng cá nhân.
Việc trang trí lớp học sao cho tự nhiên, biến không gian lớp học trở nên gần gũi, thân thiện có ý nghĩa giáo dục cho trẻ là việc làm không phải dễ. Bởi vậy tôi đã trang trí kết hợp giữa làm đẹp cảnh quan lớp học với yêu cầu phục vụ học của trẻ.
Ví dụ: Cửa sổ, cửa ra vào, lối vào phòng chờ… cũng là nơi cô có thể trang trí đưa thiên nhiên vào trong lớp học với các lọ cây xanh cô tận dụng từ nguyên vật liệu phế thải.
Hình ảnh trang trí lối ra vào phòng chờ
7.2.4. Biện pháp 2: Tổ chức chu đáo, chuẩn bị đồ dùng đồ chơi hấp dẫn, sinh động trong các tiết học và vui chơi.
* Tổ chức thật tốt và thật hoàn chỉnh giờ vui chơi :
– Trò chơi nhất là trò phân vai theo chủ đề ( chơi bán hàng, đóng vai bác sĩ, chơi cô giáo… ) góp phần vào sự phát triển hài hòa cho trẻ và qua trò chơi sẽ củng cố những tri thức mà trẻ có. Và quan hệ qua lại giữa con người với con người sẽ rất tốt nếu người lớn thể hiện sự hứng thú của mình với trò chơi của trẻ, tham gia chơi cùng trẻ, chỉ bảo hướng dẫn hành động của trẻ trong khi chơi.
– Đa phần giáo viên của chúng ta hay làm thay trẻ trong giờ vui chơi. Các loại đồ chơi thường làm sẵn cho trẻ – bé chỉ sắp xếp theo ý cô. Chúng ta nên thay đổi theo phương thức trẻ, vì hoạt động vui chơi là của trẻ và cũng là hoạt động chủ đạo của trẻ ở trường mầm non. Vì vậy trẻ rất tha thiết được suy nghĩ chơi theo sự hứng thú của mình. Cô chỉ nên là người quan sát góp ý kiến, tạo tình huống dưới hình thức cùng hòa nhập chơi với trẻ.
Ví dụ: Hôm nay con thích chơi ở góc nào?Con sẽ rủ bạn nào chơi cùng, ở góc bán hàng con định bán hàng gì…Còn cô khi trẻ đang hành động vai chơi cô sẽ đi tới giả là người mua hàng: Bác bán cho tôi 1 cân khoai hay hôm nay tôi thấy người hơi mệt các bác đưa tôi đến bác sĩ khám được không… để trẻ cảm thấy thoải mái và cùng cô hòa nhập thể hiện tốt vai chơi của mình.
Trẻ có nhiều đồ chơi để chơi ở góc xây dựng kích thích sự sáng tạo cho trẻ
Hình ảnh trẻ chơi ở góc sáng tạo
Hình ảnh trẻ chơi ở góc kĩ năng- tạo hình
* Chuẩn bị đồ dùng đồ chơi hấp dẫn, sinh động trong các tiết học và vui chơi.
Với việc linh hoạt lồng ghép các hoạt động đã kích thích trẻ tự tìm hiểu, phát hiện ra các chức năng sử dụng của đồ dùng, đồ chơi, tránh sự đơn điệu, nhàm chán, tạo cho trẻ em sự hấp dẫn, mới lạ, giúp cho trẻ dễ tiếp thu bài học và có thể tham gia thể hiện ý tưởng của mình.
Hoặc với các sản phẩm của bé sau khi hết tiết học cô sẽ chọn những sản phẩm đẹp, sáng tạo để trưng bày trong phòng tranh của bé đó là một sự khích lệ với trẻ động viên để trẻ phấn đấu cố gắng trong các hoạt động.
Phòng tranh của bé
Và điều quan trọng hơn cả, thông qua việc cùng nhau trang trí lớp học hầu hết trẻ đều rất yêu thích đến trường vì nó đem lại cho trẻ nhiều điều bổ ích, như được bày tỏ những điều mình mong muốn, được trưng bày những sản phẩm mình làm ra và được làm chủ lớp học của mình.
Ví dụ: Trong giờ tạo hình: Tạo hình các con vật bằng bàn tay. Với sự chuẩn bị những bức tranh mẫu thật là đẹp sáng tạo của cô hay những chiếc giá treo tranh đầy màu sắc cũng phần nào tạo thêm sự hào hứng và kích thích sự sáng tạo của trẻ qua tiết học.
Tranh mẫu của cô trong tiết Tạo hình con vật bằng bàn tay
Bảng treo sản phẩm của trẻ
Hoặc khi cô chuẩn bị cho 1 tiết tạo hình thật nhiều nguyên vật liệu khác nhau không chỉ đơn giản là bút sáp màu, bút chì mà cô chuẩn bị thêm màu nước, nhũ óng ánh, kim tuyến… sẽ làm cho tiết tạo hình thêm sinh động lôi cuốn trẻ tham gia.
Hình ảnh chuẩn bị đồ dùng sáng tạo cho trẻ học tạo hình
Sau những thời gian tham gia các hoạt động học tôi cũng mở tivi cho trẻ xem hoạt hình để trẻ được thư giãn và cảm thấy thoải mái thích thú khi ở lớp.
Ví dụ: Khi xem hoạt hình cùng trẻ thấy các con đang bình luận về nhân vật Em bé trong phim Gấu và em bé. Cháu Nam nói: Tớ thích bác Gấu nhất còn cháu Khánh thì bảo mình lại thích bác Gấu hơn, cô giáo có thể chủ động trò chuyện bình luận cùng trẻ về vấn đề đó một cách tự nhiên để trẻ thấy cô luôn thân thiện không khoảng cách với trẻ như: Vì sao Nam lại thích em bé hoặc cô cũng thích bác Gấu vì bác rất tốt bụng luôn nhường nhịn và chăm sóc cho em bé…. Như vậy trẻ sẽ nói chuyện rất tự nhiên, bộc lộ cảm xúc ngay trong những câu nói của mình.
Qua thực tế thực hiện biện pháp chủ động và kiên nhẫn khi giao tiếp với trẻ, tôi thấy trẻ cũng giống cô cũng có nhiều trẻ chủ động hỏi thăm cô giáo hay đặt câu hỏi thắc mắc lại cho cô giáo trả lời như: Con thưa cô vì sao mây lại bay trên bầu trời, con đố cô: Hôm nay ai sẽ đón con về… Việc tạo ra một không khí thoải mái, đầm ấm và việc đưa các trò chơi, tạo các tình huống, cũng như dùng rối trong việc giao tiếp với trẻ là cách giúp trẻ giao tiếp tích cực nhất.
7.2.3. Biện pháp 3 : Giúp bé có cảm giác thích thú mỗi khi đặt câu hỏi với cô, học được nhiều điều hay sau mỗi câu trả lời của cô.
+ Cô giáo là người bạn là người mẹ để trẻ tin yêu gần gũi khi nói chuyện:
– Hàng tháng trong những buổi họp chuyên môn của tổ tôi thường đưa ra những việc chưa thành công để các cô cùng thảo luận, hướng dẫn và gợi ý các cô muốn trẻ mạnh dạn tự tin, thông minh các cô nên gần gũi trò chuyện cùng trẻ, đừng rầy la khi cháu làm sai. Mà ngược lại phải tôn trọng trẻ không xem thường những thắc mắc những câu hỏi của trẻ.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
– Và không chỉ gợi ý cho các cô bằng lời, tôi đã hành động để các cô nắm vững cách : thường xuyên vào nhóm lớp hoặc những giờ sinh hoạt ngoài trời, giờ vui chơi, nói chuyện với trẻ bình thường và gần gũi…
Ví dụ: Như bạn Xu ti mới cắt tóc phải không, trông Xu ti cắt tóc này rất xinh và cá tính nhé! hay Gấu hôm nay có áo siêu nhân rất đẹp ai mua áo cho Gấu thế? Sáng nay vì sao Chi không muốn đi học mà lại dỗi thế con ? Kể cho cô Thu nghe nào…
– Sử dụng những câu chuyện đơn giản bằng cách gợi cho trẻ trả lời bằng những ngôn ngữ bình thường, dần dần trẻ sẽ hết bị gò bó, không còn nhút nhát nữa và còn thích kể chuyện và chia sẻ với cô giáo nhiều hơn.
+ Những thông tin những nhận xét của người thân trong gia đình:
– Một trong những biện pháp giáo dục tốt là thông tin cho bé biết là những điều người thân trong gia đình nghĩ về mình, nhận xét mình. Cô giáo là người tổ chức truyền đạt lại qua buổi sinh hoạt chủ nhiệm được thực hiện như sau: trong suốt một năm học ba mẹ đến trường tiếp xúc với cô và qua sổ liên lạc có phần nhận xét cho gia đình. Giáo viên chọn một buổi sinh hoạt trong tuần hoặc lúc sinh hoạt ngoài trời kể lại những gì cô biết về bé một cách thật tình cảm, thật tế nhị. Đặc biệt lưu ý những bé cá biệt của lớp, cô nêu những ưu điểm dù rất nhỏ động viên, tránh trường hợp chỉ khen những bé giỏi; chê bai những trẻ kém làm cho trẻ chán và thêm mặc cảm.
– Cô nên hạn chế phân tích những điều chưa tốt trên một cá nhân nào đó trước lớp mà chỉ nên giáo dục cháu trên những nhân vật qua các bài thơ câu chuyện.
Ví dụ : Bạn Gấu con vì sao lười không chịu đánh răng trước khi đi ngủ và khi đến lớp nhỉ? Vậy các con có bắt chước bạn Gấu con không? Vì sao?...
Sau đó cô giáo dục trẻ: Trước khi bố mẹ đưa đến lớp các con nhớ phải đánh răng sạch sẽ nếu không sẽ bị sâu răng như bạn Gấu con nhé!
Và để giúp bé mạnh dạn cô mời bé đứng lên – xác nhận những gì cha mẹ kể cho cô nghe và động viên bé kể những việc làm tốt ở nhà. Mục đích của cô sẽ đạt rất nhanh, vì trẻ sẽ rất tự tin những điều cô nói về mình.
+ Xây dựng giờ tìm hiểu môi trường xung quanh tốt để cung cấp kiến thức về thiên nhiên và xã hội cho trẻ:
– Xây dựng chuỗi hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó và sưu tầm cách gợi mở giới thiệu nội dung bài học.
Ví dụ : Khi giới thiệu với trẻ về đặc thù của móng vuốt các con vật sống trong rừng thì cô sẽ hỏi” các con thấy những con vật sống trong rừng như thế nào? Thức ăn của chúng là những gì? Tư thế(cách ăn) của chúng khi săn mồi như thế nào?…
– Hoặc dưới hình thức kiểm tra kiến thức trẻ. Chúng tôi thường xuyên vào lớp thăm trẻ, sà xuống nói chuyện với trẻ về mọi chuyện mà trẻ thích.
Ví dụ: Hôm qua ở nhà chủ nhật con thấy vui không? Con kể cho cô xem chủ nhật ở nhà có những gì mà con thấy vui… Những ngày nghỉ ở nhà con làm gì, có đi chơi không? Đồng thời tôi gợi mở, động viên khuyến khích trẻ hỏi thăm tôi : khen chiếc áo đang mặc, khoe với tôi món đồ trẻ đang có và ai là người mua cho con?… Đồng thời tôi mời thêm nhiều bạn cùng trò chuyện cùng thảo luận với nhau.
– Và dựa theo sự hăng hái kể truyện của bé – tôi uốn nắn thêm giúp trẻ nhận xét đúng hơn.
Hình ảnh cô và trẻ chụm tay nhau để khích lệ trẻ trong giờ học
7.2.4. Biện pháp 4: Nêu gương, khích lệ trẻ kịp thời.
Những lời nhận xét và khen ngợi kịp thời của cô giáo có tác động rất lớn đối với hành vi và suy nghĩ của trẻ. Nếu cô giáo tán thưởng và khen ngợi trẻ chính xác mỗi khi trẻ làm việc gì đó tốt dù nhỏ hay lớn đều để lại ấn tượng khó phai trong lòng trẻ. Từ đó giúp trẻ có thêm sự tự tin về bản thân mình. Ngược lại nếu trẻ làm sai trái điều gì cô giáo không nhắc nhở khéo léo kịp thời sẽ khiến trẻ vô tình tưởng rằng việc mình làm là đúng đắn không ảnh hưởng đến ai. Nhưng nhắc nhở, phê bình trẻ một cách nhẹ nhàng khéo léo chắc chắn trẻ sẽ nhớ rất lâu về việc mình không nên làm và cần cố gắng sửa chữa. Giao nhiệm vụ cho trẻ đó làm việc tốt để bù lại việc sai của mình.
Ví dụ: Thấy cô giáo làm rơi chiếc bút, cháu Quỳnh chạy lại giúp cô nhặt lên. Cô giáo nên tặng lời khen ngay cho Quỳnh và nói lời cảm ơn với trẻ. “ Cô cảm ơn con! Quỳnh rất ngoan, biết nhặt giúp cô khi cô làm rơi đồ dùng, các bạn sẽ học tập bạn Quỳnh nhé ”
Ví dụ: Trong giờ ăn cháu Gấu thích ăn cơm cá nên xin cô thêm cơm để ăn, cô cho thêm và khuyến khích cháu ăn hết xuất, Gấu biết nói cảm ơn cô a! Ngay lúc đó cô sẽ dành 1 lời khen cho bạn Gấu vì đã biết nói lời cảm ơn khi cô cho thêm cơm. Cũng với lời khen đó sẽ là những lời động viên và giúp những trẻ xung quanh học tập bạn Gấu.
Ví dụ: Thấy cháu Hường hôm nay đi học không khóc nhè, nhõng nhẽo như hôm trước cô sẽ khen trẻ ngay trước mặt cha mẹ trẻ “ Bạn Hường hôm nay ngoan quá, đi học không khóc nhè. Mẹ và cô giáo rất vui vì con ngoan hơn đấy ”
7.2.5. Biện pháp 5 : Cho trẻ được tự do và hành động theo suy nghĩ của trẻ.
– Nếu có ai nói rằng “ cho trẻ hành động theo ý thích và suy nghĩ trẻ là sai lầm” thì tôi nghĩ chính người nói như thế mới sai lầm. Bởi với vai trò là một người lớn, một giáo viên thì nhiệm vụ chính của chúng ta là giúp trẻ gặp khó khăn, hướng dẫn trẻ một cách kịp thời để luôn đi đúng hướng. Tuyệt đối không để ý nghĩ là mình kêu trẻ làm gì thì trẻ làm đó, mọi việc là có người lớn chuẩn bị sẵn chỉ cần làm theo y như vậy thì sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra. Vô hình chung vì những suy nghĩ này mà chúng ta đã để lại sự chủ quan, ỷ lại vào người lớn của trẻ.
Ví dụ : Hôm nay con thích được làm gì? Nếu trẻ thích đọc sách xem tranh ảnh cô nên để trẻ được thỏa mãn ý thích của mình và khi trẻ đang chơi cô chụp lấy 1 tấm ảnh gửi vào nhóm lớp để phụ huynh cũng xem được những hình ảnh con đang hoạt động trên lớp, với những hình ảnh đó phụ huynh càng thấy yên tâm phấn khởi khi thấy con em mình có ý thức học tập như thế.
Ví dụ: Hôm nay các bạn thích được chơi trò chơi gì nào? Và cô giáo sẽ tổ chức trò chơi theo ý thích của trẻ, trẻ thích chơi trò: Bịt mắt bắt dê cô sẽ hỏi lại trẻ cách chơi, luật chơi và tổ chức để trẻ được chơi. Giáo viên không nên mặc định hay bắt trẻ chơi trò chơi do cô đề ra như thế trẻ sẽ cảm giác gò bó không thoải mái không có quyền tự chủ khi chơi.
– Giáo viên nên giao trẻ một nhiệm vụ để trẻ được vừa chơi với hai ngày nghỉ đồng thời trẻ được chứng tỏ với ba mẹ ở nhà những gì trẻ đã được hướng dẫn từ cô giáo và bây giờ khi nói với ba mẹ trẻ lại một lần nữa được học cách nói chuyện, cách trình bày của chính người thân của trẻ. Và xem như đây ta đã giúp cho trẻ được rất nhiều qua hình thức trẻ được giao tiếp, trao đổi với nhiều người lớn và học được cách trình bày ngôn ngữ của bản thân một cách mạnh dạn, tự tin.
Ví dụ: Cô giao cho trẻ đề tài “ bé hãy nói một nghề mà bé biết. Đồng thời nói lên : ước mơ của chính bản thân mình sau này thích làm nghề gì. Tại sao?” Với đề tài này cô giáo cho bé được về nhà hỏi những người thân quen về một nghề hoặc yêu cầu bố, mẹ dẫn đi quan sát, thậm chí cả việc trò chuyện với người đang làm các nghề để trẻ được trực tiếp quan sát rồi suy nghĩ và nêu được lý do khi chọn một nghề sau này. Qua những việc mà trẻ đã làm sẽ có vốn kiến thức rất nhiều và cũng từ đây chính là nền tảng để trẻ mạnh dạn, tự tin, phát triển những lời nói của mình một cách hồn nhiên ngây thơ nhưng rất thiết thực từ những gì trẻ đã và đang thực hiện.
7.2.6. Biện pháp 6: Luôn luôn vui vẻ khi ở bên trẻ, là gương cho trẻ học tập.
Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể tươi cười, nhưng sự không vui và buốn chán có thể lây sang trẻ.Trẻ luôn coi cô giáo là tấm gương phản chiếu chính những cảm xúc của chúng. Nếu cô giáo đang lo lắng, buồn sầu chắc chắn sẽ không thể thể hiện được những điều tốt đẹp. Cô giáo sẽ phản chiếu hình ảnh gì tới trẻ Một em bé chia sẻ: “ Cháu thích được ở cùng mẹ khi mẹ vui ” và trẻ khác nói “Thích cô giáo cười, khi đó nhìn cô rất xinh ”. Trẻ em sẽ hiểu rằng, khi bạn buồn là bạn đang buồn về chúng. Thậm chí trẻ còn biết rằng chúng có nghĩa vụ làm cô giáo hay cha mẹ trẻ vui lòng. Vì vậy khi ở bên trẻ cô giáo nên cố gắng tạo tâm lí vui vẻ để trẻ cảm thấy an toàn và vui. Khi đó chắc chắn trẻ sẽ tham gia hoạt động tích cực và nói ra nhu cầu của bản thân trẻ.
Lời nói và thái độ của người lớn trẻ bắt chước theo rất nhanh. Đôi khi ngay cả với những ứng xử và ngôn ngữ vụng về của bố mẹ lại có những tác động mạnh mẽ đến trẻ hơn là những hành vi và lời nói hoa mỹ “ đúng chuẩn quốc tế ”.
Ở một góc độ khác, với trẻ nhỏ cha mẹ và cô giáo nên tránh hạn chế tối đa những câu nói bóng gió, những câu có ý nghĩa ẩn dụ ngược lại. Nếu không muốn trẻ đi ra ngoài sân thì hãy nói thẳng: “ Cô không muốn con ra ngoài sân lúc này” hơn là: “ Ừ có giỏi thì cứ đi đi ” trẻ sẽ rất hoang mang trước câu nói và thái độ của cô lúc đó, và sẽ dần dần không muốn giao tiếp với cô nữa vì bé không hiểu là người lớn muốn gì!
Chính vì vậy là giáo viên nên sử dụng ngôn ngữ và thái độ giao tiếp chuẩn mực, lịch sự và thân thiện. Tránh để trẻ bắt chước những hành vi thái độ giao tiếp không văn minh.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động ngoài trời khi cô cho trẻ quan sát: Cây hoa hồng” thì cháu Nam với cháu Tiến du đẩy nhau rồi đánh nhau . Tôi sẽ nói “Con không nên đánh bạn! Hai bạn nên đứng cạnh nhau để quan sát và cùng trò chuyện về đặc điểm của cây hoa hồng …” và không nên nói: “Con thật hư khi đánh bạn”. Vì lời nói không hay trong lúc này sẽ làm tổn thương đến trẻ, tránh gọi tên, hay làm cho trẻ cảm thấy trẻ là một con người phạm lỗi. Vì lòng tôn trọng và sự quan tâm sẽ giúp làm tăng thêm lòng tự tin ở trẻ.
Ví dụ: Khi cô nhờ trẻ giúp cô lau bàn ghế, hay xếp đồ dùng đồ chơi lên giá… Sau khi trẻ đã làm xong cô cần chú ý nói lời “ cảm ơn ” với trẻ, hay khi cô sơ suất làm đổ canh ra bàn khi đang chia cho trẻ ăn ngay lúc đó cô cần tỏ thái độ lịch sự và nói lời “ xin lỗi ” tới trẻ. Hoặc khi nhìn thấy trẻ đến lớp cô hãy chủ động nói chuyện và chào trẻ trước để trẻ học tập cô.
Ví dụ: Không nhất thiết để trẻ tự tham gia chơi hay cô hướng dẫn trẻ chơi mà cô có thể tham gia nhập vai chơi khi trẻ chơi ở các góc hay cả khi trẻ chơi ngoài trời cô cũng tham gia chơi cùng trẻ để lắng nghe, hòa nhập cùng trẻ để trẻ có cảm giác thân thiện, gần gũi với cô hơn…
Hình ảnh cô và trẻ cùng nhau chơi xích đu ngoài trời
7.2.7. Biện pháp 7: Tổ chức vui văn nghệ cuối tuần và các hoạt động trải nghiệm cho trẻ.
– Tổ chức vui văn nghệ cuối tuần là một biện pháp nhằm thực hiện tốt các bài hát đã được học đồng thời qua sinh hoạt này phát huy cho trẻ tính mạnh dạn, tự tin trước đám đông. Dám thể hiện cái trẻ biết và độc lập trong suy nghĩ và dám khẳng định chính bản thân mình. Song trong đó cũng giúp cô phát hiện năng khiếu của trẻ giúp trẻ cảm nhận tốt âm nhạc.
Ví dụ: Chúng mình vừa học xong chủ đề gì? Ở chủ đề: Gia đình các con đã được học những bài hát gì? Trong giờ sinh hoạt văn nghệ cuối tuần hôm nay các con sẽ biểu diễn những bài hát gì nào? Bạn nào sẽ lên biểu diễn 1 bài cho cả lớp mình cùng nghe. Cô khuyến khích trẻ lên biểu diễn cá nhân hoặc biểu diễn theo nhóm, Con định múa bài này cùng những bạn nào…
– Khi thực hiện chương trình sinh hoạt văn nghệ : nhạc được sử dụng nhiều cách hoặc cô đàn, nghe nhạc không lời để bé hát theo nhạc. Qua những hình thức trên bé được tiếp xúc với âm nhạc thường xuyên, cùng sinh hoạt với lớp thường xuyên sẽ tạo cho bé tự tin, vui tươi, mạnh dạn hồn nhiên và gần gũi thân thiết cùng cô và các bạn. Bé sẽ dần dần mất đi sự thụ động và nhút nhát.
Ví dụ: Trong những buổi văn nghệ ngày khai giảng, ngày tết trung thu, tết Nguyên Đán cô cho trẻ của lớp mình tập những bài múa để lên biểu diễn cho toàn trường xem, qua buổi biểu diễn văn nghệ như thế giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn khi tham gia vào các hoạt động tập thể của nhà trường.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/
Hình ảnh cô và trẻ cùng biểu diễn văn nghệ
- Những hoạt động trải nghiệm là những hoạt động không thể thiếu trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Bởi thông qua đó, trẻ được tiếp xúc, gần gũi với thiên nhiên, hít thở bầu không khí trong lành, đồng thời được khám phá, thoả mãn trí tò mò giúp trẻ có thêm những kĩ năng giao tiếp ứng xử với mọi người xung quanh.
Ví dụ: Cho trẻ đi tham quan trường tiểu học để trẻ biết quang cảnh môi trường của trường tiểu học giúp trẻ có hào hứng, thích thú và không khỏi bỡ ngỡ khi được đặt chân lên ngôi trường mới.
Hoặc tổ chức chụp ảnh lưu niệm trong buổi tổng kết chia tay các bạn học sinh 5T để các con lưu giữ được những khoảnh khắc đáng nhớ về cô giáo và các bạn khi học xong ở trường mầm non. Những hoạt động này không những có ý nghĩa mà còn giúp cho trẻ luôn nhớ về ngôi trường mình đã học và kích thích ở mỗi trẻ sự tin tin khi đứng trước máy ảnh để chụp hình.
Giai đoạn trẻ ở độ tuổi mẫu giáo là giai đoạn phát triển quan trọng trong cuộc đời của bé. Ở giai đoạn này, trẻ hình thành, phát triển giao tiếp xã hội, phát triển về mặt tư duy, trí tuệ, thể chất và nhiều kĩ năng khác. Nếu không được tham gia các hoạt động ngoài trời và các hoạt động trải nghiệm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý, tình cảm, kỹ năng giao tiếp của trẻ, có thể khiến trẻ mất tự tin, thiếu sự linh hoạt, khó hòa đồng…
Ví dụ: Ở chủ đề: Một số phương tiện giao thông, cô cho trẻ hoạt động ngoài trời với nội dung: Quan sát xe đạp và thực hành đi xe đạp. Qua bài học trẻ biết những đặc điểm của xe đạp và được thực hành ngồi lên xe đạp để đi.
Hoặc cho trẻ được tham gia các hoạt động trải nghiệm như trang trí ngày tết, tự chuẩn bị, bày bánh kẹo hoa quả cho các buổi liên hoan của lớp, đi thăm phòng triển lãm tranh, đi chơi công viên, đi siêu thị, tặng hoa các bạn gái nhân dịp 8/3… Với các hoạt động trải nghiệm này trẻ được giao tiếp xưng hô nói chuyện trực tiếp và thể hiện tình cảm với những người xung quanh. Từ đó hình thành cho trẻ thói quen kĩ năng giao tiếp ứng xử tốt.
Hình ảnh các bạn trai tặng hoa cho bạn gái nhân dịp 8/3
Hình ảnh trẻ trang trí hoa ngày Tết
Hình ảnh trẻ được đi siêu thi, đi tham quan phòng tranh triển lãm
7.2.8. Biện pháp 8: Dành tình yêu thương và đối xử công bằng với trẻ.
Được yêu thương chia sẻ là nhu cầu tất yếu giữa con người với con người. Cảm giác được yêu thương khiến con người tự tin, yên tâm hơn mạnh mẽ khi làm việc, vui chơi, học tập...Với trẻ nhu cầu này còn cần hơn bất cứ lứa tuổi nào, bởi lẽ trẻ còn mầm non còn quá non nớt, sống phụ thuộc vào người lớn ( như cha mẹ và cô giáo khi ở trường ). Cô giáo yêu thương trẻ như chính cha mẹ chúng - đó là điều cô giáo mầm non nên làm và hơn thế nữa để giúp trẻ phát triển vững vàng, tự tin.
Hình ảnh cô và trẻ khi chụp chung những bức ảnh sau khi học bài xong
Ví dụ: Khi trẻ ốm sốt cao khi ở lớp cô giáo cần ôm ấp, vỗ về không cáu gắt, không quở mắng trẻ. Cô thể hiện bằng cái nhìn trẻ âu yếm, lời nói ngọt ngào như “ Con đau bụng phải không ? Cô xoa bụng cho con nhé ! ”, “ Nam uống hết số thuốc này khỏi bệnh ngay thôi. ”... trẻ sẽ thấy yên tâm và nói với cô nhu cầu của mình như: Muốn đi vệ sinh, muốn uống nước, muốn về nhà, thấy trong người như thế nào...
Ví dụ: Với những cháu khi ăn chậm biếng ăn cô cũng không nên mắng trẻ, mà cần nhẹ nhàng động viên khích lệ để trẻ cố gắng ăn hết xuất hoặc cô cũng có thể bón để trẻ ăn nhanh hơn, đưa ra những lời khen và tán thưởng” Nếu con ăn nhanh và hết xuất như các bạn thì cô sẽ cho con đi chơi cầu trượt, hay cuối tuần con sẽ được thưởng 2 phiếu bé ngoan nếu như ăn hết xuất….
Hình ảnh cô bón cho trẻ ăn
Bên cạnh đó đối xử công bằng với mọi trẻ trong lớp không có biểu hiện ghét bỏ cháu nào, không thiên vị ưu ái cháu nào là việc làm mà giáo viên cần lưu ý. Trẻ rất tinh ý và nhạy cảm nếu cô thiên vị quan tâm quá đến một bạn nào trong lớp
Ví dụ: Cháu Tuấn làm lớp trưởng có lúc cũng hư nhưng cô giáo không nhắc nhở, không phạt như các bạn khác. Điều này sẽ làm nhiều trẻ khác thắc mắc và so sánh bạn với mình. Trẻ sẽ không tin vào cô giáo nữa và thấy bức xúc cũng như thấy cô giáo không yêu mình như yêu bạn Tuấn. Từ đó trẻ sẽ thấy ngại giao tiếp với cô, không chủ động nói chuyện với cô nữa
7.2.9. Biện pháp 9: Công tác phối kết hợp với phụ huynh.
Mối quan hệ tình cảm giữa cha mẹ và trẻ chính là động lực cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của trẻ. Do đó, cha mẹ có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc hình thành tính cách và khả năng thích ứng xã hội trong tương lai của trẻ nhỏ.
Nếu không có sự gắn kết tốt, hoặc thiếu sự gắn kết, trẻ có thể gặp trở ngại trong quá trình phát triển ngay từ khi còn nhỏ và dễ mắc phải các vấn đề về tâm lý, ví dụ như lo lắng, trầm cảm, thiếu tự tin, né tránh giao tiếp xã hội….
Phối hợp với phụ huynh để cùng tìm ra những biện pháp để cùng nhau thực hiện giúp trẻ có những tính cách, khả năng tốt là một trong các biện pháp rất quan trọng trong việc phát triển khả năng giao tiếp tự tin, mạnh dạn cho trẻ mẫu giáo. Chính vì vậy mà tôi thường xuyên trao đổi với các bậc phụ huynh qua giờ đón trả - trẻ về tình hình đặc điểm ngôn ngữ của trẻ, khả năng giao tiếp của trẻ. Thông qua đó các bậc phụ huynh nắm được đặc điểm, sự giao tiếp của con em mình để cùng kết hợp với cô giáo đưa ra các biện pháp sao cho phù hợp và đạt hiệu quả.
Ví dụ: Cháu Minh trong lớp nói rất rất nhanh đôi khi không rõ nói câu gì. Tôi đã gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi cùng kết hợp với cô giáo để sửa cho cháu diễn đạt chậm từng câu để nói cho mọi người nghe rõ ràng
Ví dụ: Trẻ nói rất nhỏ khi trả lời cô giáo, không nói chuyện với bạn nào trong lớp thường xuyên ngồi một mình. Tôi cũng đã trao đổi với các bậc phụ huynh để cùng giúp cháu mạnh dạn giao tiếp hơn đó là: thường xuyên cho trẻ chơi cùng bạn hàng xóm, đến đám đông nhiều hơn, tăng cường chơi hoạt động góc, trò chơi đóng vai theo chủ đề...
Ví dụ: Sau buổi họp phụ huynh đầu năn tôi đã xin số điện thoại của từng phụ huynh để lập 1 nhóm zalo riêng lấy tên là: Gia đình 5TA2 thân yêu. Ở nhóm này tôi đã tuyên truyền, trao đổi với các bậc phụ huynh về tình hình nhận thức và sự phát triển ngôn ngữ khả năng giao tiếp của từng trẻ, và chia sẻ những biện pháp, kĩ năng để cha mẹ giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn. Với những trẻ nhút nhát tôi liên tục nhắn tin riêng cho cha mẹ trẻ để cùng phối hợp đưa ra các biện pháp phù hợp giúp con ngày 1 tiến bộ hơn. Trong những buổi tổ chức cho trẻ đi trải nghiệm tôi mời bố mẹ trẻ đến tham gia cùng để thấy được sự mạnh dạn, sôi nổi của con khi tham gia vào các hoạt động tập thể…
Đồng thời nhắc nhở, vận động phụ huynh cố gắng dành nhiều thời gian để tâm sự, trò chuyện với trẻ, lắng nghe trẻ nói, trẻ bày tỏ. Khi phụ huynh trò chuyện với trẻ phải tỏ thái độ tôn trọng và chân thành với trẻ, đặt niềm tin vào khả năng của trẻ. Ngoài ra cần nói rõ ràng mạch lạc, khích lệ trẻ bày tỏ nhu cầu nguyện vọng của mình bằng nhiều cách khác nhau.
* Mối quan hệ giữa các biện pháp: Sự phân chia các biện pháp giúp trẻ mẫu giáo giao tiếp tự tin, mạnh dạn là để thuận lợi và tường minh trong quá trình nghiên cứu. Thực tế, trong quá trình tổ chức rất khó có thể rạch ròi giữa từng biện pháp. Không thể tách rời lúc nào sử dụng nhóm biện pháp can thiệp trực tiếp và khi nào thực hiện nhóm biện pháp can thiệp hỗ trợ, bởi trong từng biện pháp đã chứa đựng những yếu tố của nhau và khi thực hiện biện pháp này thì cũng đồng thời phải sự dụng biện pháp kia. Ngoài mối quan hệ thống nhất trong nhau, các biện pháp này còn mang tính chất của một quy trình nối tiếp và phụ thuộc lẫn nhau.
7.2 Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Tôi đã áp dụng đề tài này tại lớp …. trường mầm non …. và áp dụng vào dạy học cho trẻ 5-6 tuổi của 1 số trường trong thành phố.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không có.
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng đề tài:
- Lớp học: Rộng rãi, thoáng mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông, đủ ánh sáng để trẻ vui chơi và học tập.
- Sân trường: Rộng rãi, sạch sẽ, đảm bảo an toàn cho trẻ.
- Đồ dùng, đồ chơi: Tương đối đầy đủ theo thông tư 02, đồ dùng đa dạng và đảm bảo an toàn, không sắc nhọn.
- Phụ huynh: Vận động phụ huynh sưu tầm nguyên vật liệu ủng hộ để giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi để dạy trẻ. Mời phụ huynh cùng tham gia đi trải nghiệm cùng lớp...
- Sự hỗ trợ của đồng nghiệp: Phối hợp trong công tác giáo dục trẻ để rèn luyện và tổ chức tốt hoạt động vui chơi cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử:
- Quá trình nghiên cứu và áp dụng sáng kiến trong quá trình dạy trẻ tôi đã thu được những lợi ích sau:
Các tiêu chí đánh giá | Trước khi áp dụng | Sau khi áp dụng | So sánh tỉ lệ tăng |
Trẻ tự tin mạnh dạn hoạt bát hơn. | 10/22= 44% | 22/22= 100% | 56% |
Trẻ có kĩ năng giao tiếp ứng xử | 15/22 = 68% | 21/22= 95% | 27% |
Trẻ có kĩ năng cân bằng nhu cầu của bản thân. | 9/22= 41% | 20/22= 91% | 50% |
Trẻ có kỹ năng làm chủ cảm xúc và hành vi. | 11/22= 50% | 21/22= 95% | 45% |
Trẻ có kỹ năng diễn đạt ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu. | 10/22= 44% | 21/22= 95% | 51% |
Trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động | 9/22= 41% | 22/22= 100% | 59% |
10.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Sau một thời gian nghiên cứu và thử nghiệm đề tài, tôi thấy việc lựa chọn hình thức giúp trẻ giao tiếp tự tin, mạnh dạn là rất quan trọng. Nó quyết định đến sự tiếp thu lĩnh hội kiến thức của trẻ luôn chủ động và tự nhiên. Bên cạnh đó là sự thành công của giáo viên khi tổ chức các hoạt động trên lớp nhất là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ, đồng thời giáo viên cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm sau mỗi lần tổ chức những hoạt động. Và trong những năm tiếp theo, khi tiếp tục thực hiện đề tài này, kết quả trên trẻ cũng như mục đích của các hoạt động sẽ đạt tốt hơn. Tôi thấy rằng vận dụng một số hình thức đó sẽ giúp cho trẻ năng động, tích cực, tự tin, mạnh dạn hơn trong cuộc sống, vốn kinh nghiệm, vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh, về tình cảm, về mối quan hệ trong xã hội phong phú hơn. Đặc biệt là khả năng giao tiếp tự tin mạnh dạn cũng là chìa khoá mở ra những thành công trong cuộc sống của trẻ
Từ những vốn kinh nghiệm tích luỹ ấy, tôi đã áp dụng và đã đạt được hiệu quả cao ở lớp mình nhằm hình thành ở trẻ những yếu tố của một nhân cách phát triển toàn diện, hài hoà, đó là sự phát triển về thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể lực trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Góp phần đào tạo thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước thành những con người phát triển toàn diện, vì trẻ em hôm nay là thế giới của ngày mai.
10.2 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Sau khi áp dụng sáng kiến tôi thu được những lợi ích sau:
- Về bản thân:
Tôi thấy khi thực hiện xong đề tài này mình có kinh nghiệm hơn khi lên lớp, giúp trẻ hứng thú hơn khi tham gia vào các hoạt động vui chơi và rút ra được nhiều kinh nghiệm hơn để dạy trẻ bằng nhiều cách.
Tôi đã biết cách khắc phục được một số khó khăn của trường, lớp… mang lại khi thực hiện đề tài.
Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu cho trẻ được vui chơi.
Linh hoạt, sáng tạo trong việc lựa chọn và kết hợp các phương pháp khi tổ chức cho trẻ chơi.
- Về phía trẻ:
+ Hồn nhiên linh hoạt, mạnh dạn, thông minh và thích đến trường. Đó là điều mà phụ huynh thật an tâm khi giao con em của mình cho nhà trường, cho cô giáo.
+ Tham gia các hội thi do nhà trường tổ chức : biểu diễn văn nghệ chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam, mừng ngày 8/3, vui tế trung thu, ngày khai giảng, Tết nguyên Đán… . Tổ chức cho các cháu tham quan, trò chuyện và biểu diễn văn nghệ tại công viên, sân trường hay cả khi ngồi trên xe ô tô đi tham quan trải nghiệm trẻ rất hào hứng sôi nổi và tự tin.
+ Đặc biệt là sau 1 tiết hoạt động hoặc đang sinh hoạt trong lớp trẻ thậm chí còn chạy đến nói chuyện với cô về nét chữ trẻ viết xong, vừa thực hiện xong một tác phẩm tạo hình hoặc khoe với cô về một chiếc váy mới hay về những câu chuyện ở gia đình mình hoặc hỏi cô: Sao hôm nay em thấy cô buồn thế…. Đó là những gì mà bản thân tôi thấy rất là vui và hạnh phúc vì đã giúp các con tự tin mạnh dạn hơn trong việc giao tiếp hòa đồng cùng cô và các bạn khi ở trên lớp.
- Về phụ huynh:
Khi tôi chưa thực hiện đề tài này thì phụ huynh chưa hiểu hết về tầm quan trọng của hoạt động vui chơi đối với trẻ đặc biệt là họ không biết vui chơi có ích như thế nào đối với trẻ. Từ khi tôi thực hiện đề tài này tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh giúp họ hiểu nhiều điều và giúp họ hiểu vui chơi đối với trẻ mẫu giáo, nhất là trẻ nhà trẻ đóng một vài trò rất quan trọng với con em mình.
Hoạt động vui chơi giúp trẻ phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thể hiện cảm xúc, kỹ năng thẩm mỹ, kỹ năng nhận thức…. Đặc biệt các trò chơi giúp trẻ tự tin hơn, hứng thú tham gia vào các hoạt động học. Từ đó phụ huynh luôn tin tưởng vào cô giáo khi gửi con mình vào trường để yên tâm công tác.
Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/